THỨ SÁU 25/7/2025 11:18
Hỏi:

Đơn vị tôi đã tổ chức triển khai thực hiện một số gói thầu (tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên) theo hướng dẫn của Bộ bằng nguồn kinh phí sự nghiệp của Chương trình mục tiêu quốc gia trong năm 2024. Các gói thầu được xây dựng trên cơ sở dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, thực hiện đấu thầu rộng rãi qua mạng, thực hiện hợp đồng trọn gói với nhà thầu trúng thầu.

Quá trình triển khai thực hiện hợp đồng, về nội dung thanh toán, quyết toán gói thầu có một số nội dung còn có cách hiểu khác nhau, cụ thể như sau:

Căn cứ Hợp đồng thực hiện gói thầu (hợp đồng trọn gói) giữa đơn vị tôi với nhà thầu (bên B, là cơ sở giáo dục đại học), biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành, bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành (theo quy định của Bộ Tài chính), hóa đơn giá trị gia tăng của nhà thầu (phù hợp với hợp đồng và khối lượng công việc hoàn thành đã được nghiệm thu), đơn vị đã thanh toán toàn bộ giá trị gói thầu cho nhà thầu căn cứ theo các quy định hiện hành của Nhà nước sau đây:

- Theo quy định tại điểm c, khoản 1 (Hợp đồng trọn gói), Điều 64 (Loại hợp đồng) của Luật Đấu thầu (năm 2023): “Giá hợp đồng không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng đối với phạm vi công việc, yêu cầu kỹ thuật và điều khoản quy định trong hợp đồng trừ trường hợp bất khả kháng và thay đổi phạm vi công việc phải thực hiện dẫn đến giá hợp đồng thay đổi”.

- Theo khoản 2, Điều 111 (Thanh toán hợp đồng) của Nghị định số 24/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ: “Việc thanh toán không căn cứ theo dự toán và các quy định, hướng dẫn hiện hành của Nhà nước về định mức, đơn giá; không căn cứ vào đơn giá trong hóa đơn tài chính đối với các yếu tố đầu vào của nhà thầu, bao gồm vật tư, máy móc, thiết bị và các yếu tố đầu vào khác”.

- Theo khoản 3, Điều 3 (Lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước) của Thông tư 55/TT-BTC ngày 15/8/2023 của Bộ Tài chính: “Đối với các hoạt động, nhiệm vụ cơ quan, đơn vị được giao dự toán (bên A) ký hợp đồng với cơ quan, đơn vị khác thực hiện (bên B) theo quy định của pháp luật, tài liệu làm căn cứ thanh toán, quyết toán được lưu tại (bên A) gồm: Hợp đồng, biên bản nghiệm thu công việc, biên bản thanh lý hợp đồng, văn bản đề nghị thanh toán của bên B, ủy nhiệm chi hoặc phiếu chi và các tài liệu có liên quan khác. Các hóa đơn, chứng từ chi tiêu cụ thể do bên B trực tiếp thực hiện lưu giữ theo quy định hiện hành, bên B có trách nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ của chương trình đã ký kết, sủ dụng kinh phí theo đúng quy định”.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng đơn vị tôi thanh toán cho nhà thầu (như trên) là chưa đúng quy định của pháp luật vì hóa đơn giá trị gia tăng của nhà thầu chưa đảm bảo thanh toán theo quy định, nhà thầu cần phải cung cấp đủ các hóa đơn, chứng từ chứng minh đủ giá trị khối lượng công việc theo dự toán.

Cho tôi hỏi, việc đơn vị tôi căn cứ kết quả đấu thầu thực hiện ký hợp hợp đồng trọn gói với nhà thầu trúng thầu và thực hiện thanh toán toàn bộ giá trị gói thầu cho nhà thầu (bên B) căn cứ theo hợp đồng, hóa đơn giá trị gia tăng của bên B phù hợp với khối lượng công việc hoàn thành đã được nghiệm thu (biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành, biểu xác nhận số khối lượng hoàn thành theo quy định của Bộ Tài chính) có đúng quy định của pháp luật không?

Đơn vị tôi thanh toán cho nhà thầu (bên B, là cơ sở giáo dục đại học được giao quyền tự chủ về tài chính theo quy định hiện hành của Nhà nước) có cần căn cứ theo hóa đơn đầu vào của bên B không? Nếu các hóa đơn đầu vào của bên B có giá trị thấp hơn hóa đơn cung cấp cho đơn vị tôi để thanh toán gói thầu thì có vi phạm quy định của pháp luật không?
18/09/2025
Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật số 90/2025/QH15, các gói thầu lựa chọn nhà thầu, dự án đầu tư kinh doanh đã phát hành hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và đã mở thầu trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục tổ chức lựa chọn danh sách ngắn, lựa chọn nhà thầu, lựa chọn nhà đầu tư, ký kết và quản lý thực hiện hợp đồng theo quy định của Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 57/2024/QH15 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Theo đó, trường hợp gói thầu nêu trên đã phát hành hồ sơ mời thầu trước ngày 01/7/2025 thì tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 57/2024/QH15 (sau đây gọi là Luật Đấu thầu) và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 64 Luật Đấu thầu, khoản 1 và khoản 2 Điều 111, khoản 1 Điều 112 Nghị định số 24/2024/NĐ-CP, giá hợp đồng và các điều khoản cụ thể về thanh toán được ghi trong hợp đồng là cơ sở để thanh toán cho nhà thầu. Việc thanh toán không căn cứ theo dự toán và các quy định, hướng dẫn hiện hành của Nhà nước về định mức, đơn giá; không căn cứ vào đơn giá trong hóa đơn tài chính đối với các yếu tố đầu vào của nhà thầu, bao gồm vật tư, máy móc, thiết bị và các yếu tố đầu vào khác. Đối với hợp đồng trọn gói, việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ phần trăm giá hợp đồng hoặc giá công trình, hạng mục công trình, khối lượng công việc tương ứng với giai đoạn thanh toán được các bên thỏa thuận trong hợp đồng; khi thanh toán không yêu cầu có xác nhận khối lượng hoàn thành chi tiết.

Theo đó, việc thanh toán hợp đồng trọn gói được thực hiện theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư, căn cứ giá hợp đồng, điều khoản cụ thể về thanh toán được ghi trong hợp đồng.

Gửi phản hồi: