Tôi công tác tại Ban dự án chuyên
ngành của tỉnh Phú Thọ, được giao nhiệm vụ là thành viên tổ chuyên gia tổ chức
lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu thi công xây dựng công trình, sử dụng
nguồn vốn ngân sách nhà nước (gói thầu A). Gói thầu A đã được chủ đầu tư phê
duyệt E-HSMT theo biểu Mẫu số 3A, ban hành kèm theo Thông tư số
22/2024/TT-BKHĐT ngày 17/11/2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài
chính); gói thầu đã được đăng tải Thông báo mời thầu và tiến hành mở thầu theo
quy định (thời điểm mở thầu ngày 12/5/2025).
Gói thầu A có 02 nhà thầu tham dự,
trong đó nhà thầu có giá dự thầu thấp nhất (nhà thầu B) có bảo lãnh dự thầu
thiếu nội dung: “Chúng tôi cam kết thanh toán vô điều kiện, không hủy ngang cho
chủ đầu tư bất cứ khoản tiền nào trong giới hạn số tiền bảo lãnh nêu trên khi
có yêu cầu bồi thường của Chủ đầu tư”.
Các nội dung khác của bảo lãnh dự
thầu đều đáp ứng yêu cầu của E-HSMT và E-HSDT của nhà thầu B được đánh giá là
đáp ứng các nội dung theo quy định của E-HSMT.
Theo quy định tại Mẫu số 04A, Chương
IV, E-HSMT ban hành kèm theo Thông tư số 22/2024/TT-BKHĐT ở nội dung ghi chú số
(4) có quy định: “Trường hợp bảo lãnh dự thầu thiếu một hoặc một số nội dung
cam kết nêu trên thì bị coi là điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời
thầu theo quy định tại Mục 18.3 E-CDNT và thư bảo lãnh được coi là không hợp
lệ”.
Tôi xin hỏi, bảo lãnh dự thầu của nhà
thầu B thiếu nội dung như đã nêu trên có được coi là điều kiện gây bất lợi cho
chủ đầu tư, bên mời thầu theo quy định tại Mục 18.3 E-CDNT và đánh giá thư bảo
lãnh không hợp lệ ngay mà không phải làm rõ hay không?
Trường hợp nội dung nêu trên không
phải là điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu thì có được phép yêu
cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu đính chính của Ngân hàng hay không?
Để đảm bảo thống nhất cách hiểu và
thuận lợi cho bên mời thầu, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà
thầu như đối với trường hợp nêu trên cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn như thế
nào là “gây bất lợi” cho chủ đầu tư, bên mời thầu.